Có nhiều cơ hội tiếp xúc với cửa Phật, được biết nhiều về giáo lý nhà Phật và cũng thường xuyên đi chùa lễ Phật nên tôi luôn thấy trăn trở về những lễ vật mà các Phật tử dùng để lễ Phật không phù hợp với Đạo phật như hiện nay…
Phật Tổ Như Lai (Đức Thế Tôn, Thích Ca Mâu Ni…) là người có sinh, có mất như người trần thế. Ngài là con của Hoàng hậu Mada và vua Tịnh Phạn. Ngài sinh năm 624 TCN và mất năm 544 TCN, hưởng thọ 80 tuổi. Trong cuộc sống đời thường, khi ngài còn tại thế, các Phật tử vẫn cúng dường Ngài. Mặc dù, đức Phật đã nhập niết bàn, nhưng trong quan niệm của chúng ta, đức Phật vẫn tại thế. Chính vì vậy, việc cúng dường luôn cho chúng ta thấy đức Phật vẫn bên cạnh chúng ta và cảm thấy gần gũi…
Tuy nhiên, trong thực tế, các lễ vật cúng phật ngày nay thì bày biện đủ thứ trên đời như: thịt lợn, thịt gà, xôi, giò, chả, rồi vàng mã… Tuy nhiên, mọi người không biết rằng, sinh thời đức Phật ăn chay và đức Phật không màng danh lợi, tiền bạc. Nếu chúng ta cúng những đồ đó chẳng khác nào lại đi ngược với giáo lý nhà Phật? Đồng thời, bày biện các lễ vật như vậy thực sự là lãng phí của, phí công và còn làm ô nhiễm môi trường do đốt vàng mã…
Vậy lễ vật cúng dường đức Phật cần gì? Còn nhớ, có một lần sang đất nước Lào du lịch, tôi cũng đi lễ chùa, điều mà tôi hơi bất ngờ là bên đó, ở cổng chùa chỉ bán Hoa và Nến. Tất cả những người đến lế chùa chỉ mua 1 bó hoa (hoặc 1 bát hoa) và 1 cây nến. Vừa rồi, tôi xuống chùa Tứ Kỳ (quận Hoàng Mai) lễ Phật, nhà chùa đưa cho tôi 1 bát hoa và 1 cây nến để làm lễ Phật. Tương tự như nghi lễ Phật ở bên nước Lào…
Sau khi tham khảo một số tài liệu về Phật giáo, tôi được biết rằng, lễ vật cúng phật gồm phần Sự và phần Lý, cụ thể:
Về phương diện Sự thì lễ vật cúng Phật gồm:
1. Hoa: Tương truyền, khi mới sinh, đức Phật bước bảy bước trên bảy đài sen. Đó là bước đi của bậc đại đức, tinh khiết, thanh tịnh. Trên thế giới ít có loài hoa nào có nhiều phẩm chất cao quý như hoa sen. Bởi vậy mà nhà Phật ví nó như những đức tính của người tu hành. Ở Việt Nam sen chỉ nở mùa hạ, nên có thể dùng loài hoa khác để cúng Phật thay thế hoa sen.
2. Trái cây: Từ hoa đến trái (quả) biểu tượng cho một quá trình đi đến thành quả, biểu tượng cho sự thành công, sự viên mãn của mỗi chúng ta.
3. Hương: Là tượng trưng cho mùi hương thơm thanh khiết của hoa sen và cũng là hương thơm của tâm tu chúng ta.
4. Đèn: Là tượng trưng cho trí tuệ bát nhã. Trí tuệ là phá ngu si, như mặt trời phá tan màn đêm tăm tối. Chúng ta phải biết dùng trí tuệ để phân biệt đâu là chánh đâu là tà, đâu là hư, đâu là thật.
5. Nước: Là tượng trưng cho tâm thanh tịnh, tinh khiết. Nước còn tượng trưng cho một tấm lòng từ bi, lai láng vô cùng tận, thấm nhuần tình thương đi khắp mọi nơi.
Về phương diện Lý thì phải dùng năm món diệu hương để cúng Phật như sau:
1. Giới hương: Pháp thân của Phật rất thanh tịnh, nếu về mặt Sự, chúng ta đã dùng hương trầm đốt cúng, thì về mặt Lý, chúng ta cũng phải trì giới cho trang nghiêm thanh tịnh, để cúng dường được đủ cả về Sự và Lý.
2. Ðịnh hương: Thân tâm chúng ta bị mê nhiễm và thường loạn động trong mọi hoàn cảnh. Nếu để buông trôi mãi trong tình trạng ấy, thì chúng ta chẳng tu hành gì được. Vậy hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, hằng sát na chúng ta phải cố gắng tập định tĩnh tâm hồn, đừng để cho những ý nghĩ, hành động xấu xa xâm chiếm tâm hồn và làm cho chúng ta phải loạn động. Làm cho tâm tư lắng xuống, như thế là dùng Ðịnh hương cúng Phật.
3. Huệ hương: Huệ hương cúng Phật là lúc nào cũng phải lưu tâm vào ba món sáng tỏ: Văn huệ, Tư huệ, và Tu huệ. Văn huệ là lắng nghe lời giáo hóa quý báu của Chư Phật và Thánh Hiền Tăng, Tư huệ là đem những lời quý báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm, biết thế nào là phải, thế nào là quấy, cái nào là chân thật, cái nào là luống dối để khỏi lầm lạc vào đường tà; Tu huệ là quyết tâm thực hành những điều mình cho là phải, trừ bỏ những điều mình cho là trái, thực hiên đ1ung đắng giáo lý sáng suốt của Ðức Phật.
4. Giải thoát hương: Giải thoát hương cúng Phật là quyết tâm phá trừ ngã chấp, nguồn gốc của bao sự đau khổ luân hồi. Chúng ta phải luôn luôn quán vô ngã, không nhận chiếc thân tứ đại này là mình, cũng không nhìn cái nghiệp thức phân biệt là mình, để được thoát ly ra ngoài vòng sanh tử luân hồi.
5. Giải thoát tri kiến hương: Chúng ta đã biết quán vô ngã, để phá trừ ngã chấp thì được giải thoát, song vẫn còn "Pháp chấp" ràng buộc, nên chưa đến được cảnh giới tự tại, vô ngại như Phật. Còn Pháp chấp nghĩa là còn thấy các pháp như : đất, nước, gió, lửa là có thật; còn thấy vui buồn sướng khổ là có thật. Khi nào chúng ta thể nhận được rằng tứ đại sở dĩ in tuồng có thật là vì chúng ta còn ở trong nghiệp người, chớ đối với các loài khác, như cá chẳng hạn, thì nước đâu phải là nước như chúng ta quan niệm, mà chính là lâu đài, nhà cửa; đối với loài mọt, thì gỗ đâu phải như chúng ta quan niệm, mà là những thức ăn và nhà ở. Cho đến vui, buồn, sướng, khổ đều là đối đãi với nhau mà sanh ra. Vậy thì Pháp cũng như Ngã, đều là giả dối, không có thật, mà chỉ là những danh từ suông mà thôi. Luôn luôn, quán như thế, để được giải thoát ra khỏi sự chấp Pháp, như thế gọi là "Giải thoát tri kiến hương" cúng Phật.
Vẫn biết Phật tại Tâm. Tất cả các Pháp, đều từ Tâm sinh, Tâm không chỗ sinh, Pháp không chỗ trụ. Chính vì vậy, các lễ vật cúng Phật chỉ là hình thức và nó chẳng có ý nghĩa gì nếu cái Tâm chúng ta không hướng Phật!
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét