Làng Phú Thị huyện Gia Lâm xưa có tên Nôm làng Sủi. Đất sinh ra hai thi nhân nổi tiếng trong lịch sử văn hóa nước nhà đó là Chương Lĩnh Hầu, Nguyễn Huy Lượng và Cao Bá Quát. Đặc biệt Nguyễn Huy Lượng và Cao Bá Quát đều có những áng thơ văn đến nay vẫn được coi như tác phẩm giá trị văn học lịch sử có một không hai về cảnh sắc Hồ Tây. Tây Hồ, từ ngàn xưa có những tên riêng và tên nào cũng đẹp: Dâm Đàm - Lãng Bạc - Tây Hồ - Hồ Tây. Chương Lĩnh Hầu Nguyễn Huy Lượng sinh vào cuối thế kỷ XVIII, người làng Sủi (Phú Thị) vùng Gia Lâm - Kinh Bắc, nơi có dòng sông Thiên Đức nổi tiếng trong xanh, khi đến Hồ Tây ông cũng phải sững sờ.
Lạ thay cảnh Tây Hồ !
Lạ thay cảnh Tây Hồ !
Sắc nước, ánh trăng nơi đây thực thực, hư hư, bồng lai tiên cảnh. Chương Lĩnh Hầu đã tiến một chương ly ngữ (lời nói quê mùa) gồm 172 liên gọi là “Tụng Tây Hồ phú”. Có đoạn:
Sắc rờn rợn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng leo lẻo/ Hình lượn lượn uốn vàng trăng bạc, tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhỏ nhò/ Du nghìn mẫu nước trời lẫn sắc. Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa/ áng đất phơi mỏ phượng còn in, kẻ rằng đài thưởng nguyệt/ Vũng nước hút hàm rồng chẳng cạn, người gọi trản trùng tô... Đề Mục lang hương lửa chẳng rời/ Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển... Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn/ Khách thâu nhàn lai láng từng khu/ Cảnh đất trời lẫn sắc, trên trăng, dưới nước, cầm đàn không muốn gẩy, cảnh thu trong, gió mát phải gác bút, thơ không dám ngâm...
“Thánh thi” Cao Bá Quát cũng người làng Sủi (Phú Thị) cho rằng: “Hồ Tây chính là nơi thú nhất, vui nhất, năm tháng không buồn/ Nơi các thi nhân, mặc khách, nơi đầy sức sống, đầy sắc xuân”.
Sảng chử phồn châm mạc yếm xuân
Nhất khâu, nhất hác vị toàn bần
Địa lưu tuế nguyệt vô sầu cảnh
Thiên tá giang hồ độc hạnh nhân
(Tiếng chày giã dó có thưa thớt, tiếng đạp vải dồn dập, tứ xuân không chán. Đất dành nơi đây thành một cõi năm tháng không buồn, khách giang hồ ai may mắn nhất, thì trời cho cảnh này mà chơi).
Đời nay, ở Hà Nội vẫn còn hậu duệ của Thánh Quát rất sính thi ca. Ông là Cao Văn Tuế “tay cắt tóc, óc hành văn” ở “ẩn” trong một hiệu cắt tóc, góc hè đường ngay cổng ra vào UBND phường Bưởi (Tây Hồ). Ông đã sáng tác 1.000 câu châm ngôn, 20 truyện ngụ ngôn, có thơ tuyển và nhiều bài về văn học đăng đàn trên báo giới, nhận một số giải thưởng văn học. Là hội viên Hội LHVHNT Hà Nội “lứa đầu”. Vốn người làng Sủi, lại về ở làng Bưởi bên Hồ Tây, ông càng tâm đắc với Tây Hồ. Bài “Tây Hồ đoản ký” của ông là một áng văn hay: “Người xưa bảo: Tây Hồ dành đợi khách tao nhân, có phải thế chăng ? Chỉ biết rằng bao mùa qua, tháng lại, nắng dọi, mưa mau, cảnh sắc Tây Hồ càng lồng lộng gợi khêu muôn vẻ... Kìa đây, nhịp chày xưa còn vẳng, dồn lẽ sống ào về. Nào đấy, hồi chuông cũ thường buông, khơi điều mình trở lại/ Trăng sao nghiêng đáy nước, cảnh hồ ngợp đẫm thiên nhiên: Tây Hồ - Dâm Đàm - Lãng Bạc - Hồ Tây/ Bốn phía dồn về, ngàn năm đổi xoay để lại/ mộng mơ huyền thoại - trầm trầm hoài cổ !
Đêm nay, trăng non, nước biếc khách đa tình có phải ta chăng?”.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét